Sau 30 năm đàm phán, thiết lập đường biên giới Việt – Trung
Đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc dài hơn 1.400 km, giáp 7 tỉnh Vân Nam, Lệ Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, núi Lạng và Quảng Ninh. Và khu vực. Nhà nước cai trị ở Quảng Tây, Trung Quốc. Ranh giới này là lần đầu tiên trong lịch sử “Công ước hoạch định biên giới” và “Công ước bổ sung ngày” ngày 20 tháng 6 năm 1887 được hoạch định và phân định. Ngày 20/6/1895, Pháp và Trung Quốc (TQ) ký kết.
Sau khi cách mạng thành công ở mỗi nước, vào cuối những năm 1950, Việt Nam và Trung Quốc đã thống nhất giữ nguyên hiện trạng biên giới giữa hai nước. Xây dựng lại đường ranh giới. Vào giữa những năm 1970, Việt Nam và Trung Quốc chính thức đàm phán về đường biên giới của họ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, việc đàm phán không tiến hành được và bị gián đoạn trong thời gian dài.
Hơn một trăm năm sau khi ký kết “Hiệp định Foqing”, nhiều thay đổi đã diễn ra trên biên giới giữa hai nước. Điều kiện thời tiết, sự thay đổi của địa hình mỗi nước và những thay đổi về bất ổn chính trị và xã hội, cũng như mối quan hệ giữa hai nước, bao gồm cả cuộc chiến tranh biên giới hàng năm. Năm 1979. Ví dụ, văn bản mô tả và vị trí của bản đồ không đủ, chính xác và rõ ràng. Các địa danh cuối thế kỷ 19 không được lưới công nhận, nhiều địa danh bị phá hủy, thất lạc, di dời và nhiều bản đồ gốc biến mất. Ở những khu vực biên giới nhất định, việc di chuyển dân cư không tuân theo ranh giới pháp lý. Do đó, hai bên đã đề xuất một tranh chấp rất phức tạp liên quan đến cách hiểu khác nhau về hướng đi của biên giới, cũng như lịch sử quản lý thực tế của biên giới.
—
—
—
—
—
—
—
—
—
—
—
—
—
—
) Các tiêu chuẩn điều chỉnh Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ vào tháng 11 năm 1991, Việt Nam và Trung Quốc đã đồng ý đàm phán về một kế hoạch ranh giới mới thay thế Pháp-Đường. Công ước quốc gia và biên giới năm 1895, và phù hợp với nội dung của Hiệp định hoạch định ranh giới năm 1999. Việc phân giới nhằm tránh những tranh chấp phức tạp, ảnh hưởng đến quan hệ chính trị giữa hai nước và môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của hai nước.
Các đại diện của Trung Quốc và Việt Nam đã khôi phục bản đồ ranh giới chính trị trong vòng đàm phán thứ hai vào tháng 7 năm 1994. – Bốn giai đoạn – Giai đoạn đầu là đàm phán về nguyên tắc và ký kết hiệp định. Nội dung bao gồm cơ sở pháp lý, chính sách, thủ tục pháp lý, hình thức tổ chức, cơ chế đàm phán.
Nếu không có cùng cơ sở pháp lý, vấn đề sẽ không bao giờ được giải quyết. Biên giới, nhất là giữa các nước có đường biên giới phức tạp, tranh chấp lãnh thổ còn sót lại từ lịch sử. Đây là điều kiện tiên quyết cần thiết khi hai bên chuẩn bị giải quyết tranh chấp biên giới lãnh thổ cuối cùng. Nếu không thống nhất được cơ sở pháp lý và các bên tự ý sử dụng tất cả các tài liệu lịch sử, địa lý, dân tộc và văn hóa có lợi cho mình thì sẽ không bao giờ có thể giải quyết được các tranh chấp phức tạp. -Nếu Việt Nam và Trung Quốc không xác định được ranh giới pháp lý giữa hai nước theo quy định của Pháp (hai công ước 1887 và 1895 tại Thành Đô) và luật pháp, tài liệu kỹ thuật liên quan thì giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ không có hiệp định này. Những vấn đề quan trọng khó giải quyết, và những thành tựu lịch sử cũng khó.
Vì Trung Quốc có thể nói từ phương diện lịch sử thì Việt Nam đã là một vùng của Trung Quốc từ hàng nghìn năm nay, Việt Nam cũng có thể nói rằng vùng đất tỉnh Quảng Đông là “móng của tướng quân Lý Tông Cơ” và Quảng Tây đã từng là đất của Việt Nam. Đã chinh phục nơi này. “Sau đó, còn vô số lý do lịch sử, địa lý, văn hóa khác. Ai cũng có thể sưu tầm, sử dụng và xuất bản dựa trên những lý do khác để chứng minh cho” quan điểm “của riêng mình … Tháng 11/1991, Việt Nam và Trung Quốc ký hiệp định. Một thỏa thuận tạm thời để giải quyết các vấn đề biên giới, bao gồm quản lý biên giới trong thế giới thực, quyền tài phán biên giới cấp chính phủ và đánh dấu biên giới – bước thứ hai là hoạch định biên giới, đó là đàm phán và giải quyết các tranh chấp lãnh thổ do các quan điểm khác nhau gây ra để thống nhất Để mô tả hướng của đường ranh giới, hiển thị phương án hướng trên bản đồ địa hình do hai bên vẽ.
Tất cả nội dung công việc đều rõ ràng, đầy đủ và chính xác trong điều ước quy hoạchNgân hàng Biên giới Quốc gia, vào năm 1999, được gọi là “Hiệp ước Biên giới”. Nội dung của hiệp ước này là cơ sở cho các giai đoạn phân giới thực hiện của các bên và là cơ sở pháp lý duy nhất.
Đây là giai đoạn đàm phán giữa hai bên và là một phần của kế hoạch. Nó kết hợp các yếu tố chính trị, luật pháp và kỹ thuật. Trong đó, yếu tố pháp lý là yếu tố chính trong toàn bộ giai đoạn hoạch định biên giới.
Bước thứ ba là phân định và phân giới. Đây là giai đoạn chuyển biên được mô tả trong văn bản của “Hiệp ước hoạch định biên giới” và được vẽ trên bản đồ địa hình kèm theo, giai đoạn này được xác định bởi hệ thống mốc quốc gia. — Giai đoạn này chủ yếu hoàn thiện bằng các giải pháp kỹ thuật để thực hiện đo đạc và bản đồ ngoài thực địa. Kết quả của giai đoạn này được ghi lại trong báo cáo phân định dưới dạng thỏa thuận phân định, kèm theo bản đồ và các tài liệu liên quan khác. Trong quá trình phân giới, cắm mốc, nếu hai bên phát hiện có sai sót so với quy định trong Hiệp ước hoạch định biên giới thì lực lượng phân giới, cắm mốc lịch sử không có quyền điều chỉnh, nhưng phải báo cáo Chính phủ đồng ý ký “Bản kế hoạch biên giới” đã ký. Hiệp ước bổ sung.
Cuối cùng là thực hiện khâu quản lý bảo vệ biên giới là cột mốc quốc gia. Tiếp tục tiến hành ký kết các hiệp định về phối hợp tuần tra, bảo vệ, quản lý mốc giới; quá cảnh biên giới, sử dụng tài nguyên nước trên các sông suối biên giới, hợp tác khai thác danh thắng khu vực biên giới. Các hiệp định này được thể hiện bằng các hiệp định, thỏa thuận, quy định cụ thể, chi tiết và hoàn toàn phù hợp với nội dung của “Hiệp ước biên giới” và “Hiệp định phân giới, cắm mốc”. Đây là cơ sở cho nỗ lực chung của các lực lượng, cơ quan quản lý, bảo vệ các bên nhằm thiết lập biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, duy trì ổn định lâu dài. Bảo vệ, quản lý cột mốc, đường biên giới nhằm duy trì và phát triển quan hệ láng giềng bình đẳng, hữu nghị và phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Việt Nam-Trung Quốc tổ chức lễ cắm mốc biên giới quốc gia đầu tiên tại Wangcai, Quảng Ninh vào tháng 12 năm 2001.
Nguyên tắc — Tháng 10 năm 1993, Việt Nam và Trung Quốc đã ký thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ, trong đó nhất trí triệu tập bốn diễn đàn đàm phán về vấn đề biên giới lãnh thổ, bao gồm ba cấp chuyên gia và một Cấp chính quyền.
Hai nước nhất trí có cơ sở pháp lý sau để đàm phán: dựa trên Công ước hoạch định biên giới Trung-Pháp năm 1887 và Công ước bổ sung năm 1895, có kèm theo các tài liệu và bản đồ quy hoạch, và các mốc kèm theo đã được chứng nhận bởi hai công ước trên. Hoặc giám sát, đối chiếu và xác định lại toàn bộ ranh giới đất đai giữa Việt Nam và Trung Quốc “.
Vì vậy, lịch sử của tất cả các tài liệu lịch, bản đồ, sách hướng dẫn, thậm chí cả văn bản chính thức ban hành trước ngày đó, nếu không Theo quy ước nói trên, nó sẽ không được dùng làm cơ sở để xác định phương hướng của đường biên giới, trong quá trình đàm phán nói trên, hai bên đã đạt được thỏa thuận.
Để thực hiện thỏa thuận nói trên, từ tháng 2 năm 1994 đến tháng 12 năm 1999, hai bên đã tổ chức 6 cuộc họp chính phủ. Các cuộc họp cấp, 16 chu kỳ của các nhóm công tác chung, 3 nhóm làm việc để soạn thảo các hiệp ước. Trong vòng đàm phán thứ hai vào tháng 7 năm 1994, các nhóm công tác đã bàn giao bản đồ chính trị, ngược lại, các đường ranh giới chồng chéo lên nhau. 870 km / 1360 km. (67%), 436 km / 1360 km, 289 khu vực không chồng lấn, với tổng diện tích hơn 236 km2. Trong đó, 74 khu vực loại A (gần 2 km2) sử dụng công nghệ chồng lấn và 51 khu vực loại B Diện tích (trên 3 km2), không vẽ, 164 khu loại C (do hai bên có quan điểm khác nhau), bao gồm một số khu vực tranh chấp. Đất đai.
Trong vòng đàm phán cấp chính phủ lần thứ sáu vào tháng 9 năm 1998, cả hai bên đã đồng ý Khu vực C được chia thành ba loại: khu vực quy ước được đánh dấu rõ ràng, khu vực nằm trên hoặc trên đường phân giới, khu vực quy ước không ghi rõ cần được xử lý theo các nguyên tắc đã thỏa thuận.
Những lý do quan trọng của “các nguyên tắc đã thỏa thuận” Có. ”Hiệp định về Nguyên tắc giải quyết cơ học vấn đề biên giới Việt – Trung được ký kết vào ngày 19 tháng 10 năm 1993. Có hai điều đáng chú ý ở đây. Thứ nhất, điểm thứ ba của hiệp định nêu rõ:“ Sau khi hai bên được thẩm vấnÝ tôi là xác định lại đường ranh giới, là khu vực do bên nào quản lý ngoài đường ranh giới, và về nguyên tắc thì phải trả lại vô điều kiện cho bên kia. “- Trong quá trình phân giới, đối với một số khu vực nhạy cảm, do có sự hiện diện của cư dân vượt ranh giới pháp lý của quy hoạch mới, hai bên thống nhất thực hiện nguyên tắc giảm thiểu ảnh hưởng đến khu dân cư và điều chỉnh ranh giới hình sao nhằm cân đối diện tích và giữ nguyên khu dân cư. Hiện trạng của quận, chẳng hạn như nhà cửa, vườn tược, nghĩa trang.
Theo nguyên tắc tại điểm 3 ở trên, cả hai bên đồng ý quản lý khu dân cư một cách thỏa đáng. Ví dụ, cư dân Việt Nam sống bên ngoài ranh giới pháp lý mới 4 Mỗi khu vực loại C có diện tích hơn 7 km2, 5 khu vực loại C của người Trung Quốc có khoảng 6 km vuông trên đường biên giới hợp pháp với Việt Nam cũng có hiện trạng tương tự.
Đối với khu vực cấp cao có tiền đồn quân sự, điểm cao Ở quốc gia nào thì thuộc về quốc gia đó. Theo thông lệ quốc tế, do điểm cao nằm ở biên giới nên không bên nào được phép đóng quân hoặc thiết lập các công trình quân sự tại khu vực đó.
Thứ hai, điểm 4 của hiệp định năm 1993 nêu rõ: ” Về đoạn biên giới dọc sông, lạch, hai bên nhất trí sẽ xem xét, giải quyết toàn bộ tình hình thông qua đàm phán hữu nghị với hải quan quốc tế. “-Trong vòng đàm phán cấp chính phủ lần thứ năm, hai bên đã đạt được thỏa thuận về các nguyên tắc thuộc địa hóa sông và lòng sông giữa hai nước. Về ranh giới được xác định rõ trong Công ước 1887 và 1895, các quy định của Công ước dựa trên quy định của Công ước xác định ranh giới. Cũng như việc kiểm soát các cồn cát trên các sông biên giới. Do “Công ước” không xác định rõ đường biên giới ven sông, lạch nên hai bên sẽ thông qua các nguyên tắc chung của luật pháp và thông lệ quốc tế để xác định.
Nguyên tắc chung là: đường biên giới sẽ tuân theo Là trung tâm của tuyến đường thủy chính mà tàu bè qua lại. Trên các sông, đoạn sông không qua lại được thì biên giới sẽ theo trung tâm của dòng chảy hoặc dòng chính. Năm 1999, Việt Nam và Trung Quốc chính thức ký Hiệp ước hoạch định biên giới, Quốc hội hai nước Hiệp ước được phê chuẩn vào năm 2000. Hiệp ước mô tả hướng của biên giới bằng chữ và được hiển thị bằng đường màu đỏ trên bản đồ tỷ lệ 1 / 500.000. Trên cơ sở hiệp ước, hai bên bắt đầu phân giới và thử nghiệm điểm chuẩn vào tháng 12 năm 2001.
Đến cuối năm 2008, công tác phân giới cắm mốc cơ bản hoàn thành, chiều dài mốc giới chính xác 1.449,566 km, trong đó 383,914 km đường ranh giới ven sông suối, cắm 1.970 cột mốc, trong đó 1.548 mốc chính. Mốc, mốc phụ 422. -Tất cả công việc này nhằm phân định chính xác ranh giới, đặc biệt là phải rõ ràng, đầy đủ, hoàn chỉnh, được đánh dấu bằng hệ thống mốc quốc giới chính thức lâu bền và đủ số lượng trên mặt đất .
Biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ảnh: Bộ Ngoại giao Việt Nam – Hơn 30 năm sau, quá trình giải quyết các tranh chấp về biên giới, lãnh thổ nhằm thiết lập hệ thống mốc quốc giới và biên giới rõ ràng giữa Việt Nam và Trung Quốc một cách thường xuyên, Phát triển hiện đại và bền vững Đây là một quá trình đã kéo dài hơn 30 năm, còn nhiều khó khăn trở ngại, điều này không chỉ do nguyên nhân lịch sử, mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh riêng của mỗi bên, phải vượt qua khoa học kỹ thuật, chính trị, pháp luật, tâm lý. Sự hợp tác giữa hai bên trong quá trình giải quyết vấn đề ranh giới đất đai là phù hợp với lợi ích hợp pháp của hai nước, phù hợp với luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế, được hai bên chấp nhận và tôn trọng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước.
Giải quyết vấn đề ranh giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc giúp tạo dựng lòng tin giữa các bên liên quan và là cơ hội mới để phát triển giao lưu hữu nghị, tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại. -Việc hoàn thành đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc năm 2008 là sự hoàn thành của hai nước Một sự kiện lịch sử trong mối quan hệ nhưng đã trải qua nhiều thăng trầm theo tiến trình lịch sử – việc xác lập ranh giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Với việc ký kết “Hiệp ước phân định vịnh Tokyo” và ký kết “Hiệp định nghề cá vịnh Tokyo”, các Kinh nghiệm và bài học quý báu rất hữu ích cho việc bổ sung các thông lệ pháp lý quốc tế trong quá trình ấn định biên giới và biên giới trên bộ.Giao thông hàng hải và hàng hải giữa các nước láng giềng đã mở ra khả năng tiếp tục giải quyết các vấn đề trên biển giữa hai nước Biển Hoa Đông.